Tên di sản : Nhà thờ họ Nguyễn Đình
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3986/QĐ-UBND
Giới thiệu
Nhà thờ được tọa lạc về hướng đông, trên một khu đất rộng, cao ráo và thoáng mát ở trung tâm làng Trung Vực có diện tích là 150m2, thuộc khu vực khoanh vùng bảo vệ I, trên thửa đất số 1341, tờ số 13 của bản đồ địa chính xã Xuân Tín được đo vẽ năm 2005, tỉ lệ 1/2000, bao gồm các công trình: Nhà thờ chính, sân và cổng. Bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc của di tích đều giáp khu vực dân cư làng Trung Vực trù phú và sầm uất. Ngoài ra, bên tả của di tích còn có một ngôi nhà gỗ ba gian có kích thước chiều dài là 7m, rộng 5m, được xây bằng gạch, trát xi măng và vôi vữa, mái lợp ngói mũi. Bộ khung gỗ của ngôi nhà được kết cấu theo kiểu giá chiêng kẻ chuyền. Tất cả các cấu kiện gỗ ở đây đều được bào trơn bóng bén, soi gờ chỉ. Đây là nơi gia đình ông Nguyễn Đình Lễ sử dụng để làm nơi ở và sinh hoạt hàng ngày.
Kiến trúc nhà thờ hiện nay gồm có các công trình sau:
Cổng nhà thờ: được xây bằng gạch với hai trụ vuông có chiều cao mỗi bên là 2,5m, bên ngoài được trát bởi một lớp vôi vữa. Giữa đỉnh mỗi trụ, mỗi bên được trang trí hai mái như kiểu mái nhà.
Nhà thờ: là một ngôi nhà ba gian được cấu trúc hình chữ Nhất (-), kiến trúc theo kiểu “Trùng thềm”gồm “Nhà trong” và “Nhà ngoài”, được xây dựng theo kiểu tường hồi bít đốc, có kích thước chiều rộng là 7,57m, trong đó hiên (Nhà ngoài) rộng 2,6m, dài 8,35m; Nhà trong rộng 4,97m, dài 8,35m, chiều dài là 8,35m với tổng diện tích là 63,2095m2.
Ở phía ngoài, phần bờ nóc được lợp bằng ngói bò, mái lợp ngói mũi; Bờ giải được đắp vuông cạnh bằng gạch và vôi vữa. Nhìn trên diện mạo chung, ngôi nhà có kiến trúc theo kiểu “Trùng thềm”, tức là một ngôi nhà gồm có lòng nhà được sử dụng làm nơi thờ tự và hiện trước cũng có công năng để sử dụng sinh hoạt trong các ngày tế lễ như các ngôi nhà truyền thống khác của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ nói chung, Thanh Hóa nói riêng. Tuy nhiên, nét độc đáo của ngôi nhà ở đây là kết cấu bộ khung gỗ bên trong và hiện trước ngôi nhà tuy là một khối liên kết chặt chẽ khi ta mới nhìn trên tổng thể ngôi nhà, nhưng trên thực tế chi tiết của kết cấu kiến trúc mới cho thấy đây là hai bộ khung gỗ riêng biệt.
Kết cấu của Nhà ngoài (hiên trước) như sau:
Gồm ba gian, 4 bộ vì kèo và hai hàng chân cột. Trong đó đó, vì số 1 và vì số 4 (hay còn gọi Vì thuận) có cấu trúc đăng đối với nhau theo kiểu chồng rường đấu dế đón lá dong. Quan sát một vì: nhìn từ đỉnh nóc xuống là một đấu bát nằm trên một con rường bụng lợn có nhiệm vụ đỡ Thượng lương. Phía dưới là hai đấu trụ được đỡ bởi các đấu dế phía trên là câu đầu. Để đỡ các hoành tải là hệ thống kẻ chuyền. Vì số 2 đăng đối với vì số 3, được kết cấu theo kiểu “Giá chiêng kẻ chuyền”. Các đầu kẻ ở đây đều được ăn mộng vào trụ đứng, đầu kia ăn mộng vào hệ thống quá giang. Cũng như hai vì số 1 và vì số 4, để đỡ con rường bụng lợn là các đấu trụ bằng các đấu tròn và đấu vuông. Tuy nhiên, ở vì số 2 và vì số 3, các đấu trụ tròn, phía trên là đấu tròn, phía dưới là đấu bát (vuông). Các đầu bẩy ở đây đều được ăn mộng vào đầu cột hiên, nghé bẩy ăn mộng vào quá giang, phía trên là hệ thống ván dong có nhiệm vụ đỡ trực tiếp các hoành tải; các đầu kẻ, đầu bẩy ở đầu cột hiên có nhiệm vụ đỡ tàu mái. Liên kết giữa các cột con và cột hiên ở hai vì thuận là các hệ thống quá giang của vì phụ.
Như vậy, để tạo không gian thoáng đãng cho ngôi nhà, ở hiện trước các nghệ nhân xưa đã thiết kế phần hiện thêm một bộ vì phụ, vì vậy khi mới nhìn vào từ phía dưới lên ta có cảm giác như ngôi nhà có phần mái chính và phần hiện tách rời. Hai bộ vì kèo ở đốc của hiên này được kết cấu theo kiểu chồng rường bẩy hiên. Hai bộ vì giữa được kết cấu theo kiểu giá chiêng kẻ chuyền. Hệ thống, tường long cốt chính là phần ngăn cách giữa nhà trong và nhà ngoài. Trong đó, Nhà ngoài là nơi hội họp của con cháu trong họ mỗi khi có việc họ và các ngày lễ, tết cũng như ngày giỗ tổ hàng năm.
Nhà thờ chính (nhà trong).
Vì kèo của nhà thờ chính bên trong được kết cấu đăng đối với nhau. Trong đó, vì số 1 đăng đối với vì số 4 và kết cấu theo kiểu vì kèo suốt. Vì số 2 đăng đối với vì số 3 được kết cấu theo kiểu “Giá chiêng kẻ chuyền”.
Phần nối giữa các cột cái với các cột quân ở phía trong là hệ thống các con rường. Các con rường được chồng lên nhau bởi các đấu trụ vuông trang trí hình hoa lá cách điệu. Bộ vì nóc phía trên câu đầu là hai con rường chồng lên nhau và thu hẹp dần theo kết cấu nóc mái ngôi nhà. Các con rường được đỡ bởi các đấu trụ vuông nằm trên câu đầu. Đầu con rường thứ nhất trên bộ vì nóc ăn mộng vào đầu cột lớn; đầu con rường thứ hai ăn mộng vào đầu trụ đứng. Hai trụ đứng này được nối với nhau bởi một con rường dài nằm ngang ăn mộng vào trụ đứng đỡ hai hoành tải của mái trước và mái sau. Trên cùng là một đấu bát đỡ thượng lương; đây là điểm mút cuối cùng của cấu trúc bộ vì kèo. Toàn bộ hệ thống khung gỗ và rui, mè của nhà thờ đều được làm bằng các loại gỗ En, Dổi, Lát và gỗ Lim.
Nghệ thuật trang trí:
Đề tài trang trí trong kiến trúc của ngôi nhà được phân bố trên các cấu kiện của bộ khung gỗ trên các đấu, trụ, bẩy, đầu kẻ, xà nách, xà thượng, xà hạ, câu đầu, con rường, ván dong, ván lá...Các đề tài ở đây như: rồng trong mây, hoa lá cách điệu gồm tùng, trúc, cúc, mai được chạm lộng, chạm bong đã tạo nên các hình khối mềm mại, uyển chuyển đã làm tăng thêm sự sinh động cho ngôi nhà. Các mảng chạm khắc này lấy hình tượng rồng làm chủ đạo, còn hoa văn vân mây, hoa lá... được sử dụng làm nền trang trí cho các mảng chạm khắc. Cụ thể như sau:
Ở Nhà trong: Hai bộ vì kèo giữa số 2 và số 3, nhìn từ trên xuống, theo thứ tự điểm mút của bộ vì kèo là một đấu tròn đỡ thượng lương, tiếp đến là các con rường, câu đầu, giá chiêng, kẻ, quá giang được trang trí chạm khắc hoa văn hoa lá và rồng mây cách điệu. Riêng bốn đấu trụ vuông của hai vì được trang trí hoa văn hình chữ Thọ.
Các mảng trang trí, chạm khắc hoa văn hình rồng, mây ở đây là biểu hiện hình ảnh của nước và cũng chính là ước vọng về cuộc sống an lành của cư dân nông nghiệp. Ngoài ra, rồng ở đây còn mang ý nghĩa hướng về cội nguồn của dân tộc với truyền thuyết “Con rồng cháu tiên”.
Hai vì số 1 và vì số 4, các cấu kiện gỗ ở đây được bào trơn bóng bén, không có trang trí, chạm khắc hoa văn.
Ở Nhà ngoài: Kết cấu kiến trúc và các mảng chạm khắc, đề tài trang trí cũng được thể hiện đăng đối giữa các vì với nhau.
Ở hai bộ vì thuận (vì 1 và vì 4), các đấu tròn, câu đầu, con rường, quá giang đều được trang trí hoa văn hình rồng mây, hoa lá cách điệu. Các đấu trụ ở đây cũng được trang trí hoa văn hình chữ Thọ. Ngoài ra, ngay chính giữa của hai bộ vì này mỗi bên còn trang trí một hình bát quái. Bẩy (bên hữu) trang trí đề tài cành trúc, bẩy (bên tả) trang trí đề tài cành mai, xung quanh các bẩy trang trí hình rồng mây cách điệu.
Hai vì số 2 và vì số 3, các đấu tròn, câu đầu, kẻ, quá giang, bẩy cũng được trang trí hoa văn hình rồng mây cách điệu. Riêng hai đấu trụ tròn được bào trơn bóng bén, không trang trí, chạm khắc hoa văn. Ngoài ra, hai bẩy bên hữu trang trí đề tài cây tùng, bẩy bên tả trang trí đề tài hoa cúc.
Như vậy, các đề tài trang trí chủ đạo ở đây là các hoa văn hình chữ Thọ, tứ quý (tùng, trúc, cúc, mai), hình rồng, mây cách điệu. Qua các đề tài rồng, mây, hoa lá, tùng, trúc, cúc, mai không chỉ là nơi để các hiệp thợ thể hiện tài năng, trình độ, gửi gắm ý tưởng thẩm mỹ mà nó còn phản ánh tâm tư, ước vọng của các cư dân nông nghiệp xưa về cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hình tượng hoa cúc cách điệu ở đây chủ yếu được trang trí trên các con rường, bẩy hiên, ván lá với nét chạm khắc sâu đã tạo nên nét tài hoa và sự uyển chuyển, phóng khoáng, gần gũi với thiên nhiên cho ngôi nhà.
Đặc biệt, đề tài tứ quý và hình rồng mây cách điệu được trang trí ở hệ thống các bấy hiện trước. Các đấu trụ đỡ con rường đều được trang trí hình chữ Thọ, câu đầu được trang trí chạm nổi hình hổ phù cách điệu.
Đề tài “Tứ quý” (tứ thời, tứ thì, tứ hữu) thường là bốn loài cây mang biểu tượng cho bốn mùa gồm: Tùng, trúc, cúc, mai. Đôi khi ta cũng có thể gặp hoa lan và hoa sen thay thế mại và cúc ở một số công trình kiến trúc truyền thống. Mai tượng trưng cho sự thanh cao và khí tiết của người quân tử; trúc tượng trưng cho sự ngay thẳng và cương trực của người quân tử; Cúc biểu tượng cho lòng chung thủy và Tùng tượng trưng cho khí phách hiên ngang của người quân tử.
Theo quan niệm dân gian thì rồng thuộc “Tứ linh”, tức bốn con vật linh thiêng gồm: long, ly, quy, phụng (phượng). Trong đó, rồng là con vật được xếp đứng đầu trong tứ linh bởi đây là con vật biểu hiện cho sức mạnh và quyền lực, đây cũng là linh vật cát tường nhất trong tứ linh nhưng không có thật. Cũng theo quan niệm dân gian thì “Tứ linh” phối với bốn mùa, tức lân (ly) ứng với mùa xuân, phụng là mùa hạ, quy trùa) là mùa thu và long là mùa đông. Người xưa đều nhận định, hình tượng rồng là biểu thị cho sự tốt lành. Chữ Thọ, theo nghĩa Hán - Việt là chỉ sự lâu bền.
Ngoài ra, đề tài trang trí hình hoa lá, rồng mây cách điệu và hoa văn hình kỷ hà được chạm khắc nổi trên hệ thống xà tử hạ mặt trước của bộ khung gỗ theo từng mảng đề tài riêng biệt mà các nghệ nhân đã thể hiện ở đây cũng là nét độc đáo của ngôi nhà.
Tất cả các mảng chạm khắc ở các bộ vì kèo và các cấu kiện gỗ của ngôi nhà đều được thể hiện bằng các mảng chạm bong, chạm lộng và chạm nổi, nét chạm tinh xảo. Ngoài ra, phần phía trên của hệ thống cửa bức bàn ở ba cửa ra vào mỗi cửa còn được trang trí kiểu đường triện cách điệu long và vân mây vờn chữ Thọ.
Nhìn chung, đề tài trang trí trên các bộ vì kèo của ngôi nhà tương đối giống nhau và có tính đồng nhất, chủ yếu tập trung vào các đề tài như: rồng, mây, hình chữ Thọ và đề tài Tứ quý. Ngoài ra, ở hai vì thuận của bộ vì phụ ở hiện trước, phần giữa còn trang trí hình bát quái hay còn gọi là “Yểm long thông bát quái”. Các đề tài trang trí ở ngôi nhà không chỉ thể hiện sự gần gũi với đời sống dân dã, tâm thức của cư dân nông nghiệp mà nó còn là nơi thể hiện tài năng, trình độ và những ý tưởng thẩm mỹ của các nghệ nhân xưa muốn gửi gắm vào đây.
Bài trí đồ thờ:
Gian chính giữa gồm có hai ban thờ. Ban thờ phía trong là nơi thờ vị Trung hưng công thần Nguyễn Văn Dinh đặt một ngai thờ và một bài vị bằng gỗ sơn son thếp vàng, hai bên đặt hai chân nến gỗ, hai đài nước gỗ, một hòm đựng sắc, hai chân đèn gỗ; chính giữa đặt hai bát hương gốm theo thứ tự từ trong ra ngoài và một lư đồng; hai bên lư đồng còn có hai chân nến đồng. Phía ngoài cùng hai bên phía trước còn đặt mỗi bên một giá chúc bằng gỗ. Ban thờ phía ngoài là nơi đặt ba mâm bồng gỗ, hai bên mỗi bên đặt một bát gốm và một bình đựng rượu bằng sứ.
Nhìn chung, di tích nhà thờ họ Nguyễn Đình tuy kiến trúc không to lớn, đồ sộ, nhưng kết cấu kiến trúc và các đề tài trang trí ở đây khá đặc sắc, tiêu biểu và phong phú. Các mảng chạm khắc được thể hiện trong bộ khung gỗ của ngôi nhà khá dày đặc, đặc biệt là ở phần hiện trước đã tạo nên được sự thoáng đạt, uyển chuyển, mềm mại của một thức công trình.
Hiện vật bố trí gian giữa nhà thờ:
Ngai thờ và bài vị
Hòm đựng sắc
Bát hương
Chân nến
Giá gương
Mâm bồng
Lọ hoa gỗ…